Cưỡng đoạt tài sản

cưỡng đoạt tài sản

Ngày nay, hành vi cưỡng đoạt tài sản của người khác ngày càng phổ biến và có tính chất nghiêm trọng hơn, đe dọa đến tính mạng, sức khỏe cũng như trật tự ổn định trong xã hội. Vậy cưỡng đoạt tài sản là gì, cấu thành tội danh cưỡng đoạt tài sản ra sao, mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết dưới đây 

Cưỡng đoạt tài sản là gì?

Cưỡng đoạt tài sản là hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, hành vi này thực hiện do lỗi cố ý nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác.

Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015, cưỡng đoạt tài sản được hiểu là hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.

Thực tế áp dụng, có không ít trường hợp nhầm lẫn giữa hai hành vi cướp tài sản và cưỡng đoạt tài sản. Tuy nhiên, đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, mức xử phạt áp dụng với hai hành vi này cũng khác nhau.

Theo đó, điểm khác biệt nổi bật giữa cướp tài sản và cưỡng đoạt tài sản là hành vi cướp tài sản thì đe dọa ngay tức khắc sử dụng vũ lực còn cưỡng đoạt tài sản mới chỉ đe dọa tương lai sẽ dùng vũ lực nếu bị hại không trao tài sản.

Về khách thể tội cưỡng đoạt tài sản:

Tội cưỡng đoạt tài sản cùng lúc xâm hại đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ sở hữu. Trong đó, việc xâm hại đến quan hệ nhân thân không phải mục đích của tội phạm mà chỉ đe dọa tinh thần làm cho người bị cưỡng đoạt phải giao tài sản.

Về mặt khách quan tội cưỡng đoạt tài sản:

Hành vi tội cưỡng đoạt tài sản:

Tội cưỡng đoạt tài sản thể hiện ở hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.

– Về hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực là hành vi thể hiện thái độ, cử chỉ, lời nói tạo cho người bị đe dọa cảm giác sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài sản. Giữa thời điểm đe dọa sẽ dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực có một khoảng cách nhất định về thời gian. Cho nên, người bị đe dọa có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động.

– Về hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ làm một việc gây thiện hại về tài sản, danh dự, uy tín nếu người bị uy hiếp không thỏa mãn yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội (như đe dọa hủy hoại tài sản, loan tin về đời tư, tố giác hành vi phạm pháp…của người bị đe dọa).

Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện một trong các hành vi phân tích ở trên chứ không phụ thuộc vào việc có chiếm đoạt được tài sản hay không.

Hậu quả: Đe dọa đến quyền sở hữu và nhân thân của người bị hại.

Về mặt chủ quan tội cưỡng đoạt tài sản: 

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chiếm đoạt tài sản là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này.

Về chủ thể tội cưỡng đoạt tài sản:

 Là người đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm nhiệm hình sự.

PHÂN TÍCH DẤU HIỆU NHẬN BIẾT TỘI DANH CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN:

Tội cưỡng đoạt tài sản theo điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 được hiểu như sau:

Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thù đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.

Cũng như các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài

Hành vi (khác) uy hiếp tỉnh thần là hành vi dọa gây thiệt hại về tài sản, danh dự, uy tín bằng bất cứ thủ đoạn nào nếu người bị uy hiếp không thoả mãn yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Những hành vi này xét về tính chất cũng giống như hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực vì cùng có khả năng khống chế ý chí của người bị đe dọa. Hành vi uy hiếp tinh thần có thể được thực hiện bằng một số thủ đoạn sau:

– Đe dọa huỳ hoại tài sản của người bị đe dọa;

– Đe dọa tố giác hành vi phạm pháp hoặc hành vi vi phạm đạo đức của người bị đe dọa;

– Đe dọa loan những tin thuộc về đời tư (mà người bị đe dọa muốn giữ kín) V.V..

Những điều đe dọa trên có thể có thực, có thể không có thực hoặc chỉ có thực một phần. Điều Ịuật không giới hạn những thủ đoạn của hành vi uy hiếp tinh thần trong tội cưỡng đoạt tài sản. Bất cứ thủ đoạn nào có thể uy hiếp, khổng chế được ý chí của người khác đều được coi là thủ đoạn của hành vi uy hiếp tinh thần trong tội cưỡng đoạt tài sản. Người bị đe dọa có thể là chủ tài sản hoặc chỉ là người có trách nhiệm đối với tài sản.

Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm:

Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc hành vi uy hiếp tinh thần đã thể hiện lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.

Mục đích phạm tội được quy định là mục đích chiếm đoạt tài sản.

Việc thực hiện hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc hành vi uy hiếp tinh thần đã được quy định là nhằm mục đích chiếm

Khung hình phạt tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500 triệu đồng trở lên;

– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

cưỡng đoạt tài sản
cưỡng đoạt tài sản

Tội “Cưỡng đoạt tài sản” được quy định tại điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo đó “người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”.

Ngoài những dấu hiệu về chủ thể phải đủ năng lực hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội “Cưỡng đoạt tài sản” thì mục đích chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc trong cấu thành của tội này. Nếu người phạm tội không có mục đích chiếm đoạt tài sản mà hành vi nhằm một đích khác thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự có hành vi khách quan “đe doạ sẽ dùng vũ lực…” là hành vi doạ sẽ gây thiệt hại đến sức khoẻ, tính mạng trong tương lai nếu không thoả mãn yêu cầu chiếm đoạt của người phạm tội. Khác với tội “Cướp tài sản” đe doạ “dùng vũ lực ngay tức khắc” thì tội “Cưỡng đoạt tài sản” là đe doạ “sẽ dùng vũ lực” tức là dùng vũ lực trong tương lai, có khoảng cách về thời gian. Sự đe doạ này không có tính nguy hiểm như tội cướp.

Trường hợp một số phóng viên, công tác viên của một số báo có thể không có hành vi đe dọa dùng vũ lực nhưng lại dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần đối với cá nhân, tổ chức bằng việc đăng hoặc không đăng bài báo nhằm ép cá nhân, tổ chức đó phải đưa tiền cho mình cũng thỏa mãn dấu hiệu phạm tội của tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Ở đây, người bị đe doạ, uy hiếp tinh thần còn có điều kiện để chống cự lại, có thời gian để báo cáo với cơ quan có thẩm quyền xử lý trước khi hành vi chiếm đoạt xảy ra.

Thực tế, quá trình diễn biến tội phạm, nếu người phạm tội đang trong giai đoạn chiếm đoạt tài sản như vừa cầm được tài sản trong tay người bị hại thì người bị hại giành giật lại, hoặc đang trong lúc giằng co tài sản mà người phạm tội đánh, đấm, đâm, chém… người bị hại để chiếm đoạt bằng được tài sản đó thì lúc này người phạm tội đã dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản và do đó chuyển hoá thành tội “Cướp tài sản” chứ không còn là “Cưỡng đoạt tài sản”.

Cưỡng đoạt tài sản từ bao nhiêu tiền thì bị xử lý hình sự?

Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định cụ thể tại Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015, trong đó khoản 1 Điều này nêu:

“Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

Theo quy định nêu trên, có thể thấy hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc của tội phạm này. Nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng chỉ cần có ý thức chiếm đoạt tài sản, đồng thời đã có hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác để buộc người quản lý tài sản giao tài sản thì khi đó tội phạm đã hoàn thành.

Điều này cũng có nghĩa, người thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản chỉ cần có hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để uy hiếp nhằm chiếm đoạt tài sản đã có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cưỡng đoạt tài sản mà không cần xác định số tiền người này chiếm đoạt được là bao nhiêu hay thậm chí là đã lấy được tài sản hay chưa.

Trường hợp gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính ch ất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn.

Cưỡng đoạt tài sản đi tù nhiều nhất bao nhiêu năm?

Điều 170 Bộ luật Hình sự quy định 04 khung hình phạt áp dụng với Tội cưỡng đoạt tài sản như sau:

Khung hình phạt

Mức phạt

Hành vi phạm tội

01

Phạt tù từ 01 – 05 năm

Đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản

02

Phạt tù từ 03 – 10 năm 

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

– Có tổ chức;

– Có tính chất chuyên nghiệp;

– Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 – dưới 200 triệu đồng;

– Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

– Tái phạm nguy hiểm.

03

Phạt tù từ 07 – 15 năm

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 – dưới 500 triệu đồng;

– Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

04

Phạt tù từ 12 – 20 năm

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500 triệu đồng trở lên;

– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Theo bảng trên, có thể thấy mức phạt tù cao nhất của Tội cưỡng đoạt tài sản là từ 12 – 20 năm tù.

Trên đây là các quy định về cưỡng đoạt tài sản. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về cưỡng đoạt tài sản và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm. 

Recommended For You

About the Author:

Hotline: 0347 362 775
Tư Vấn Online
Gọi: 0347 362 775